Monday, April 10, 2017

THƯỜNG QUÁN VỚI ‘HẢI ĐẢO, TRỞ LẠi’


Phố Văn


Thường Quán
Sinh 1956 tại Đà Nẵng.
Hiện sống tại Melbourne.
Thơ, tiểu luận đăng phần lớn trên các tạp chí văn nghệ ngoài nước như Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Tập Họp, Việt, Nhân Văn, Quê Mẹ, Diễn Đàn.
Thơ Anh ngữ đăng rải rác ở The Age Saturday, Meanjin, Heat

Tác phẩm đã xuất bản:
Ngoài Giấc Ngủ (Nhà xuất bản Văn Nghệ California, 1990), Hải Đảo, Trở Lại (2017)

Thường Quán từng viết, “thơ là huỷ hoại những giá trị ban đầu của chữ, phá vỡ tính ổn định của nó, để tạo những phản ứng mới và bất ngờ” (“Những mảnh vỡ ý nghĩ về thơ”). Từ đó ta thấy Thường Quán kén chọn chữ nghĩa… Có vẻ như từng chữ một đều là những suy nghĩ cô đọng, gợi lên nhiều hình ảnh nối tiếp.
Gốc rễ của thơ: ta có thể thả lửng như những đầu bạch dương mà mùa màng đã dọn hết lá, treo giữa trời kia, hay có thể kéo lại gần, cùng thứ kỷ niệm chung cùng, của những ai đã từng đi qua bìa một cánh đồng, đứng trước một căn nhà, về tới một bìa nước, nước soi rọi thơ ấu.
Tôi gởi bạn người cầm tập thơ này khoảng không gian ấy.”
Thơ Thường Quán mới, mang vẻ đẹp trong sáng của ngôn ngữ và trí tuệ.
PV

Southbank Melbourne, 15-5- 2016

 for Q.

Cây xáo động và chim gỡ rối
những lát đá đường đằm tĩnh chảy xuôi
nắng chưa lên, người chưa hiện
tay trần mùa hè, tượng tạc mùa thu
ngày xa khuất đó mây dường kín dày hơn, áo dạ kéo cao hơn
chiếc cổ ở khung cửa hải cảng cực Nam
một cột khói hải dương tìm tới
một tiếng dội cột buồm
những thủy thủ đốt lửa
nước réo cà phê trên bếp xanh lì lầm
ngày xa khuất đó Á Châu là một viền cong
sự trôi dạt và đắm, kéo dài hơn một cự ly
không nằm ngoài một đuôi mắt
nhưng chỉ có kẻ tín thành nhất may mắn thấu đạt

Ngôn ngữ mà những kẻ đứng trên boong tàu dò dẫm nghe ngóng
sẽ hiện trên hoa văn chiếc khăn
một sườn núi trải ra, một đôi tay mang tới
triêu dương để lại độ cháy nồng trên vòm trăng khuyết
tĩnh tịch dưới một đáy hồ
sóng đã thôi reo sau đêm gió chướng
tiết trời keo lại trên ngọn dương tùng
một mỏ chim cắn miếng trong trẻo
kêu rân vang ức ngực, sắc diệp lục
nguyên tố khởi sinh, kẻ đứng thù tiếp hương sương sớm
một đọt cau, một nương trà

Tôi từng đứng đó và em từng bay lượn ở buổi sáng ấy
khi gió vẽ những hình thù trên thềm cát
những hạt cát di động trong ánh sáng

Có gì trần trụi hơn cát, áo lá nào linh động hơn ngày thu, ánh sáng
chúng ta thả mặc phần trống của tương lai
căn phòng ngày đó, và chúng ta tới đây
chiếc cửa vòm những mẫu tự la tinh, những họa tiết mới
một ngày hỏa hoàng, ký ức cháy lên cùng đầu lưỡi hiện tại
sự thả mặc hẳn đã tìm được bầu trời lạ lẫm từ ái
những bạch dương, ngô đồng, bạch đàn, những hiền triết du sĩ
những thính phòng, chiếc bảng đen ký hiệu của phương hướng

Đó là một đêm đi về hướng Nam khi sao chớm hiên vườn học xá
thế giới không chỉ nằm trong ôm sách mới
đó là một chiều bày biện tiểu luận khai minh
không có gì ngoài tình yêu và không khí mà sống
đó là một tiếng gõ tay vào cửa, một đôi mắt sáng bất ngờ
đó là những mở tung mùa hè, không biết ai sẽ trở lại
với ai, ai sẽ nói gì, ai sẽ chọn

buổi sáng và đêm tối, để bắt đầu bước
cuộc bước đi trong âm tiết những câu thơ những đầu lá khởi thảo
trên gạch cũ, đá xanh, những kẽ nứt vôi và hắc ín
những con đường bên này sông và bên kia
chỗ mà tôi đang ngồi đây, trí nhớ

Treo bên kia, tháp nhà ga, những buổi sáng trước sáu giờ
tôi đã tới, bước xuống từ một khoang tàu
ngoại ô đại học, đi vào cửa ngõ thành phố
những cửa sổ còn đóng, những ô lầu vàng đèn
sự kỳ bí của những mái lầu Collins Street, Queens Street
yên trong sương mù tháng sáu, tháng bảy
yên vị, như em những ngày mới quen
đã giúp gõ của thức sớm tôi, đúng hẹn
khuôn mặt sáng, trước bình minh, trước hiện tại, tương lai
con tàu mà, xem nào, chỉ có thơ ghi đúng tốc độ
đó là vòng quay trong studio, trước bản tin sớm
Strauss, Mendelssohn, Tschaikowsky
tây ban cầm Narcisco Yepes, những ca khúc tinh sương
của Schubert, của những ai hai mươi
mây mù cửa sổ lạc vào từ biển

Tôi thả nổi nhạc cho làn sóng ngắn, ngồi hình dung
em đang sửa soạn một ngày ở căn phòng học xá
những ai đang sắp sửa một chuyến vượt thoát
bên kia biển, sóng dấp và giữa khơi ngấp ngấp ngoại tầm
không ai biết định mệnh của mình giữa những lưu vực tăm tối
giữa sự sống và sự biến mất là một thoáng tĩnh lặng
riêng tư, kín mật, chỗ của đôi tay cầm lấy vô hình
trao gởi cho lòng từ mà tim máy động hình dung
một triêu khúc, một chuỗi chuông reo, trên cao vầng trán
ngày đầu mà con người đứng dậy, tư duy, bao lâu xa, chốn mít mùng bếp lửa

Trí nhớ đánh nốt, viết trên trang ngày, bất ngờ
Dư âm ở cánh cửa đi vòng, sau thời gian, là nghe được
ca khúc, sầu khúc, tẩu khúc
Âm thanh trên đá khi chân đã đi qua
tri kỷ với thời tiết để dấu trên gân lá
đã rụng, hay còn bay, trời thu, dung nhiếp
linh hồn mình.


Sông Hàn

Đã đứng đó một buổi sáng
Đã đứng vào đúng chỗ đứng ấy
Sông trôi kia, nước trôi kia, một người đội nón trên ghe, người đàn bà quẩy tay chèo
Chị nhìn nước, rong bèo của nước
Tôi nhìn chị, người đưa buổi sáng ra đi
Sẽ nhanh lắm, chớp mắt là một cách nói
Người áo cánh, chiếc thuyền nan, bóng di động duy nhất
Trên toàn bộ một cảnh trí của một ngày lóa lòa ngớp ngợp nắng
Hay tôi là người mù
Hay Heraclitus là bà mụ
Đã đưa tôi ra giữa căn phòng sáng sơ sinh
Hay chị là người mẹ
Hay tôi là con rái cá
Mất cành cây rời rạc rụng Túy Loan
Nắng dắt tay tôi dưới tán bàng khổng lồ đứng ngó qua Hà Thân
Đã đứng đó giọng người di cư Lệ Thủy
Tôi phát âm cũng buổi sáng nắng từng trụ cột đỡ rầm trần
Một đầu tàu rân đen đủi
Tôi té vỡ trán bên một anh chó vàng
Tay đưa vào miệng vị mặn đó
Nó chưa có tên
Chị chỉ chở khoảng trời xanh nặng
Chiến tranh một chữ tôi không thèm nói, tôi chối từ
Nước! Nước! Lũ trẻ con chạy trong đêm tối
Ôm những chiếc bát đất nứt nẻ, rách miệng
Tay chúng quơ quơ, mắt thì nhắm, chị chỉ dẫn chúng làm sao
Cho được nhẹ và rằng này dịu dàng
TQ


Bến Thủy

 (Tưởng niệm nhà văn Dương Nghiễm Mậu)
 
Bến xe của những chất đống bao tải củ nâu đã dời đi, chiều kín miệng, cánh dơi.
Mưa rây tam giác chóp mái, đường dây thép trổ ngang xương, dư ra ba cột chống, chiều chụp chập choạng sợ đổ, làm như là người tiền sử thức hoảng mấp mớ: Trời có đã sập?
Chưa đâu, anh cười. Bến xe miền Tây sang trang thế kỷ dẫu gì cũng có chiếc mái, độ nghiêng, mưa xuôi, có chim, dơi, trở chiều, đập đập những chiếc cánh mỏi, ngắt vụn gió máy. Đẳng dưới mái, miệt trong, có ai ho khúc khẳng, tiếng chiếc cassette, giọng người kép già khao khan ấm. Và ai đó nói: Dữ hôn! Quỉ Thần, Chèng đéc!
Bến xe của những chất đống.
Một người nói vói “Lại đẳng, ngữ này,…” Câu buông lơ, anh nhặt lấy như một củ đậu sót vừa lòng tay. Nhớ trật chữ ‘Dịch’.
Mùa hương ngọt, rủ rê tới một độ thì không quay nổi nữa. Chong chóng Đông Ki Hô Tê. Gió đảo, xay chừng. Ngó mông. Miết một mường tượng đường trường.
“Ê Già, Già có biết chuyến chót nhứt là c mấy giờ không?”
Anh biết nói mấy cũng trật. Người kia nói luôn: “Tui cũng đoán chừng chừng, nếu không bị banh đâu, không bị chặn quớ quàng, thì gì … cũng trước chạng vạng.”
Người cùng lỡ chuyến chìa điếu thuốc, lóc xóc tay vào túi áo gió trật, bật quẹt đá, Lọt đâu hơ? Gã hỏi, cho có.
Bến xe đứng chắc chốt.

*
Chiều đã lên đèn nhập nhọ, bến xe đụp một với nhà ga rộng thinh, kẻ kia không nghe nói thêm gì, chắc đã ngủ. Anh đã thôi chờ, tự lót lấy chỗ ngã lưng bằng mấy tờ nhật trình đại loại, tự rót cho mình một ca nhôm nước nguội. Khi nào nó tới thì tới, nghe xa lắm tiếng mõ đánh lốc cốc.
Trăng Hồi Hai. Ai đang thông báo, chỉ hiềm quên, chứ hồi Một là khi nào. Muỗi bay loạn vo ve muỗi trâu. Chụp đèn hột vịt xông khói đuổi . Anh tự hỏi, Bao giờ thì trở lại đầu ngựa.
Mấy căn nhà hai buồng bên kia đường lọ nhọ khách. May là mình không nhấc chân qua hỏi, chỉ nhọc công. Đêm chắc mẩm, phải tới, đã tới. Hồi, tuồng, công đoạn, tuần tự cái gì tới sẽ tới. Anh nhớ lại khuôn mặt người đã nói câu đó, đã bỏ đi, đã không ao giờ gặp lại. Nghe nói.
Nghe nói hắn đã tới, nhưng sống thủng thỉnh lưng núi. Ai kéo cho dương cầm lên đẳng núi? Câu kéo cắt sít sao. Trăng lỉnh kỉnh mang theo những phụ tùng: mảng nước, chiếc nón thừa trên đầu một cội thủy tùng. Nương trắng, mấy đọt bắp, trảng cao su ngưng mủ. Lũ dơi. Sự quyết du hành một lần, dự định bay của giấc mớ sảng của đủ ba kiếp người kế tục di hệ chung cùng trên một địa bàn. Căn buồng từ một phố sớm sương Hà Đông. Cành sương mãn thiên. Chiếc màn màu mỡ gà. Sân khấu hài kịch. Ai an ủi: Kẻ ấy đã sớm thấy kiếp, đời, số, phận và vì thế, không cãi. Chỉ ghi nhận.
Câu kéo.
*
Bến xe. Bọn rọi đèn đi một đàn, họ hát, ngôn ngữ gì? Họ nói. Ngôn ngữ gì? Họ đánh choảng lên thứ âm thanh chưa hề từng bao giờ. Kẻ bên anh thức dậy hoảng hốt đâm nhào ra đường. Trống, không phải. Kèn, không. Một thứ âm thanh kim loại, từ những rọi đèn trăm oát điện, chóa lòa, sân khấu, chịu, không thấu.
“Invitation to the Beheading!”
Điệu này cờ phướng băng rôn lại là cuỗm của ai. Mời đi xem bữa bêu đầu. Vuông đất chợ hay quãng trường công nhân? Sân sâu của lão Đại Phán Quan? Bậc thềm lát đá trăng lên ria bìa Lăng Tẩm triều đại. Mời đi xem. Tiệc bêu danh. Không danh thiếp. Không cần cơm nắm nước nôi. Một đôi hôm, ba bữa. Câu cuỗm cắt cụt. Mời đi. Mời.
Anh cười. Chuyện cổ, tích cổ. Chỉ tiếc mình mơ cái viết vào thế kỷ viễn hành lại bị buộc quay đầu vào cổ tích. Mà không sao. Mời là đi. Miễn tay dù đen một cầm vững. Như kiếm. Như gươm dài. Nửa đêm hay đầu sáng. Ngôi sao trầy sướt. Một cổ ngựa.
Bến xe của những chất đống bao tải củ nâu. Anh thử hỏi: “Này quí vị có nhớ “
Anh lập lại lần nữa: “Quí vị hẳn nhớ”
Anh thấy giọng mình khí lạ, bật hỏi chỉ để hỏi, vào trống trải.
“Quí vị hẳn có nhớ ai thủy tiên?”
Trời sao dày rộn bữa khác thường. Một sự tự trả lời đi tới. Ta với ta. Sáng đằm, sáng ấm cúng, bao bọc. Buổi đang rẻ nhánh. Con đường mưa bụi mùa xuân, ánh sáng đầu ngày đang làm rõ từng hạt li ti bay lượn.
Ao hồ sóng sánh.
Một giọng quen thuộc lắm reo lên.
“Ngựa chờ kia!”
TQ



No comments:

Post a Comment